Ngày 27/9, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố Báo cáo xếp hạng Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2023 (Global Innovation Index 2023). Việt Nam xếp hạng 46/132 nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2022.

Chỉ số đánh giá Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) là gì?
Được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) phối hợp với Trường kinh doanh INSEAD, Pháp và Đại học Cornell, Hoa Kỳ) xây dựng lần đầu tiên vào năm 2007 và liên tục hoàn thiện nhằm có được một bộ công cụ đo lường hệ thống đổi mới sáng tạo (ĐMST) ở cấp quốc gia hoặc nền kinh tế.
Các chỉ số chính được tính toán, đo lường gồm:
1) Chỉ số phụ về Đầu vào ĐMST: Năm trụ cột đầu vào phản ánh những yếu tố trong nền kinh tế tạo điều kiện cho các hoạt động ĐMST, bao gồm (1) Thể chế, (2) Nguồn nhân lực và nghiên cứu, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Mức độ phát triển của thị trường và (5) Mức độ phát triển kinh doanh.
2) Chỉ số phụ Đầu ra ĐMST: Đầu ra ĐMST là kết quả của các hoạt động ĐMST trong một nền kinh tế. Đầu ra của ĐMST có hai trụ cột chính là: (6) Sản phẩm tri thức và công nghệ và (7) Sản phẩm sáng tạo.
3) Chỉ số ĐMST tổng hợp là trung bình cộng đơn giản của Chỉ số Đầu vào và Chỉ số Đầu ra.
4) Tỷ lệ Hiệu quả ĐMST là tỷ lệ giữa Chỉ số Đầu ra trên Chỉ số Đầu vào. Tỷ lệ này cho biết một quốc gia tạo ra bao nhiêu đầu ra ĐMST ứng với số đầu vào ĐMST của quốc gia đó.
Việt Nam năng động trong tiến trình đổi mới sáng tạo thế giới
Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng chỉ số đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng 2 bậc so với năm 2022, từ vị trí 59 lên 57. Chỉ số đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Mức độ phát triển của thị trường, Mức độ phát triển kinh doanh.
Chỉ số đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 1 bậc so với năm 2022, từ vị trí 41 lên 40. Đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ và Sản phẩm sáng tạo.
Theo WIPO, Việt Nam là một trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về ĐMST trong thập kỷ qua (gồm Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Indonesia và Cộng hòa Hồi giáo Iran).
Việt Nam cũng là một trong 3 quốc gia (cùng Ấn Độ, Cộng hòa Moldova) giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 13 năm liên tiếp.
Năm 2023, chỉ số GII có một số thay đổi về các chỉ số thành phần, nguồn dữ liệu và cách tính chỉ số thành phần. Trong đó, có chỉ số mới về startups như “Giá trị của các doanh nghiệp kỳ lân” và Việt Nam được xếp hạng 33.

Chi tiêu R&D của Việt Nam xếp hạng 66, không có sự cải thiện so với các năm trước. Tuy nhiên, chi R&D của top 3 doanh nghiệp lớn có sự cải thiện đáng kể, xếp hạng 29, tăng 9 bậc so với năm 2022.
Giá trị các thương vụ đầu tư mạo hiểm dù còn nhỏ nhưng cũng đã có sự cải thiện lớn so với năm 2022, xếp hạng 60, tăng 17 bậc so với 2022.
Các doanh nghiệp liên tục đầu tư để thực hiện quản lý chất lượng theo ISO. Theo đó, chỉ số về giá trị ISO 9001/tỷ $PPP GDP đã tăng 15 bậc so với năm 2022, từ vị trí 65 lên 50 năm 2023.
Bên cạnh đó, một số chỉ số còn ở mức thấp
Nhóm chỉ số bền vững sinh thái dù tăng 3 bậc so với năm 2022 nhưng thứ hạng vẫn rất thấp, xếp hạng 110. Trong đó, đáng chú ý nhất là chỉ số Kết quả về môi trường xếp hạng 130, tiếp tục giảm 2 bậc so với năm 2022. Đây là chỉ số luôn có thứ hạng thấp từ năm 2017 đến nay.
Các vấn đề về Thể chế vẫn cần nhiều nỗ lực cải thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chỉ số Hiệu quả thực thi pháp luật xếp hạng 72, giảm 2 bậc so với năm 2022. Chỉ số Chất lượng các quy định pháp luật sau khi cải thiện 10 bậc từ hạng 93 lên 83 vào năm 2022, năm 2023 giảm xuống vị trí 94.
Thời gian qua, Chính phủ đã sử dụng bộ chỉ số này như một trong các công cụ quản lý điều hành quan trọng và đã phân công các bộ, cơ quan, địa phương cùng có trách nhiệm cải thiện chỉ số. Trong đó, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ đầu mối theo dõi, điều phối chung.